Sự phù hợp của mô hình được xác định bởi sự tương ứng giữa ma
trận hiệp phương sai quan sát được và một ma trận hiệp phương sai ước lượng lấy
kết quả từ mô hình được đề xuất proposed model.SEM sử dụng một chuỗi các đo
lường để miêu tả giả thiết nghiên cứu giải thích dữ liệu input như thế nào. Dữ
liệu input tạo thành ma trận hiệp phương sai giữa các biến đo lường.
Nếu chúng ta giải thích được đến tất cả các mối tương quan
chính vốn có trong tập dữ liệu (liên quan đến các biến trong mô hình của chúng
ta) thì chúng ta sẽ có mô hình phù hợp good fit. Nếu có sự khác biệt giữa những
mối tương quan đề xuất và những mối tương quan quan sát được, chúng ta sẽ có
một mô hình có độ phù hợp thấp poor fit. Mô hình đề xuất không "phù
hợp" với mô hình quan sát, mô hình ước lượng.
Các chỉ số đo độ phù hợp của mô hình
Các chỉ số đo độ phù hợp của mô hình, goodness of fit được liệt
kê dưới đây, kèm theo với ngưỡng giá trị chấp nhận. Độ phù hợp mô hình nghịch
đảo với kích cỡ mẫu và số biến quan sát trong mô hình. Vì thế, ngưỡng dưới đây
chỉ là hướng dẫn chung thôi nhé. Chi tiết về ngưỡng cụ thể, xem bảng 12-4 trong
sách Hair et al. 2010 trang 654(Hair, J., Black, W., Babin, B., and
Anderson, R. (2010). Multivariate data analysis (7th ed.): Prentice-Hall, Inc.
Upper Saddle River, NJ, USA.).
Chỉ số
|
Ngưỡng chấp nhận
|
Chi-square/df (cmin/df)
|
<3 thì tốt, <5 đôi khi chấp nhận được
|
CFI
|
>0.9
|
GFI
|
>0.9
|
TLI
|
>0.9
|
RMSEA
|
<0.05
|
PCLOSE
|
>0.05
|
Khi chương trình chạy ra ta sẽ xem các giá trị model fit như
hình sau:
Ngoài ra còn một số chỉ số đo lường độ phù hợp khác, cụ thể chi
tiết các chỉ số như sau:
χ2 / df < 3
: dùng để đo mức độ phù hợp một cách chi tiết hơn của cả mô hình, dùng so sánh
model với data, càng nhỏ càng tốt.
SRMR : standardized
root mean square residua: là sự khác biệt giữa phần data thực tế và phần mô
hình dự đoán. Dao động từ 0->1,càng nhỏ càng tốt, SRMR=0 thì mô hình dự đoán
hoàn toàn trùng khớp với dữ liệu, <=5% thì tốt.
CFI: comparative fix
index. Lấy độ phù hợp của một mô hình với một bộ data và so sánh với độ
phù hợp của một mô hình khác với chính data đó. Dao động từ 0->1 , càng lớn
càng tốt. CFI>=90% . Những chỉ số dạng này :TLI (Tucker–Lewis index),
BL89 (Bollen's fitndex), RNI (relative noncentrality index). CFI là một phiên
bản được hiệu chỉnh của RNI. CFI dùng để tránh đánh giá thấp độ phù hợp khi cỡ
mẫu nhỏ khi sử dụng NFI. Vì thế, ưu điểm của CFI so với NNFI là ít bị tác động
của cỡ mẫu.
RMSEA: root mean
square errors of approximation, cũng dạng như SRMR, nhưng sự phù hợp sẽ xấu đi
khi số biến trong mô hình tăng, <=8% thì tốt. , nên SRMR được ưu tiên dùng
hơn.
GFI(goodness of fix
index): dao động từ 0.0 đến 1.0 , đôi khi âm, >=90% là tốt. đo lượng quan hệ
của phương sai và hiệp phương sai trong ma trận hiệp phương sai. Ý là mô hình
phù hợp cỡ nào khi so sánh với mô hình null ( các tham số đã được fix về 0)
AGFI : (Adjusted
Goodness of Fix) dao động từ 0.0 đến 1.0 , >=85 % là tốt. điều
chỉnh kết quả của một mô hình phức tạp , điều chỉnh bậc tự do df với số biến
quan sát , vì thế đề cao những mô hình đơn giản với ít biết quan sát.
Cách cải thiện độ phù hợp của mô hình
Chỉ số MI Modification indices
Chỉ số MI đưa ra các biện pháp khắc phục cho các sai lệch giữa
mô hình được đề xuất và mô hình ước lượng estimated model. Trong CFA, chúng ta
không thể thêm các đường hồi qui để sửa mô hình phù hợp, vì tất cả các đường
hồi qui giữa các biến tiềm ẩn và biến quan sát được đã có sẵn. Vì vậy, trong
CFA, chúng ta xem xét các chỉ số sửa đổi cho hiệp phương sai. Nói chung, chúng
ta không được sử dụng các mũi tên hiệp phương sai covariances giữa phần dư
(error terms) với biến quan sát hoặc biến tiềm ẩn. Đồng thời cũng không
được sử dụng giữa những error terms mà không thuộc cùng một nhân tố. Do đó,
cách phù hợp nhất để sử dụng chỉ số MI là nối các mũi tên hai chiều hiệp phương
sai giữa các phần dư trong cùng một nhân tố.
Mô hình có Chi-square càng nhỏ càng tốt. Cột MI gợi ý cho
bạn xem nên móc mũi tên hai đầu vào cặp sai số nào để có thể cải
thiện Chi-square Khi đó GFI, TLI, CFI … cũng sẽ được
cải thiện. Bạn nên chọn những trường hợp mà có MI lớn để ưu
tiên móc trước. Sau đó, chạy lại mô hình, và xem nên móc tiếp giữa
hai sai số nào để tiếp tục cải thiện… Tuy nhiên, một mô hình không
nên móc quá nhiều mũi tên hai đầu giữa các cặp sai số!
Hình dưới đây minh hoạ hướng dẫn này
Chỉ số Standardized Residual Covariances
(SRCs).
Có một cách cải thiện độ phù hợp của mô hình ngoài chỉ số MI, đó
là dùng Standardized Residual Covariances (SRCs). Chỉ số này cũng giống như
modification indices , nghĩa là chỉ ra sự khác nhau giữa mô hình đề xuất và mô
hình ước lượng(proposed and estimated models). Tuy nhiên, những sai lệch đó có
đáng kể mới được sử dụng. Hệ số standardized residual covariance đáng kể khi có
giá trị tuyệt đối lớn hơn 2,58. Những giá trị đó làm giảm đáng kể độ phù hợp mô
hình của bạn. Các quy tắc cải thiện mô hình cũng tương tự như chỉ số MI( nghĩa
là chỉ số nào lớn thì xử lý trước). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng trong thực tế,
việc áp dụng cách này nên hạn chế, bởi vì việc giải quyết theo cách
này đòi hỏi phải loại bỏ các items trong bài của mình. Nghĩa là xóa luôn một
vài câu hỏi trong bài, chứ không đơn thuần là móc chỉ số covariances như khi áp
dụng MI.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét