Định giá tài sản có lịch sử hình thành và phát triển khá lâu ở nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta, trong những năm gần đây, nghề định giá tài sản cũng được phát triển rất nhanh chúng với nhiều loại hình doanh nghiệp tham gia thị trường và đội ngũ cán bộ định giá chuyên nghiệp.
Định giá tài sản là hoạt động định giá, định giá mang tính chất khách tồn tại trong đời sống kinh tế xã hội của mọi nền kinh tế sản xuất hàng hoá, đặc biệt đối với những nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, có liên quan đến lợi ích của nhiều chủ thể khác nhau.
Trên thực tế không có sự phân biệt rõ ràng giữa định giá và thẩm định giá vì công việc của định giá và thẩm định giá đều là xác định giá trị để tìm ra giá cả của tài sản định bán trong một tập hợp giả định các điều kiện trên thị trường nhất định. Công việc này được thực hiện bởi các nhà chuyên môn được đào tạo, có kiến thức, kinh nghiệm, có tính trung thực và tuân theo các tiêu chuẩn thẩm định giá do Nhà nước quy định. Kết quả của việc xác định giá cả do các thẩm định viên đưa ra là cơ sở để các tổ chức, cá nhân có tài sản định ra mức giá phù hợp trong giao dịch.
Mô hình CAPM:
Mô hình định giá tài
sản vốn (Capital asset pricing model – CAPM) là mô hình mô tả mối quan hệ giữa
rủi ro và tỷ suất sinh lợi mong đợi. Trong mô hình này, tỷ suất sinh lợi mong
đợi bằng tỷ suất sinh lợi phi rủi ro (risk-free) cộng với một khoản bù đắp rủi
ro dựa trên cơ sở rủi ro toàn hệ thống của chứng khoán đó. (Nguyễn Minh Kiều,
2007)
Mô hình CAPM do ba nhà
kinh tế William Sharpe, John Lintnet và Jack Treynor phát triển từ những
năm 1960 và đã có được nhiều ứng dụng từ đó đến nay. Mặc dù cũng có một số mô
hình khác ra đời để giải thích động thái thị trường nhưng mô hình CAPM là mô
hình đơn giản về mặt khái niệm và có khả năng ứng dụng sát với thực tiễn. Cũng
như bất kỳ mô hình nào khác, mô hình này cũng chỉ
là một sự đơn giản hoá hiện thực nhưng nó vẫn cho phép
chúng ta rút ra những ứng dụng hữu ích.
Mô hình định giá tài
sản vốn phát biểu rằng: thu nhập kì vọng của một loại chứng khoán hay danh mục
đầu tư sẽ ngang bằng với mức trên các chứng khoán phi rủi ro cộng thêm khoản
lợi tức bù rủi ro nữa. Nếu thu nhập kì vọng không đạt mức thu nhập tối thiểu
yêu cầu, khi đó nhà đầu tư sẽ không tiến hành đầu tư. Các đường sml của thị
trường chứng khoán sẽ thể hiện kết quả của capm đối với các mức rủi ro khác
nhau (β). ( Lê Đại Trí, 2011)
Suất sinh lợi kỳ
vọng: E(Ri) = rf + b(
RM – rf )
• Hệ số beta: độ nhạy
của chứng khoán đối với thay đổi trên thị trường
β =1: biến thiên bằng
thị trường, rủi ro bằng mức thị trường
β > 1: rủi ro cao
hơn mức trung bình của thị trường
β <1: rủi ro thấp
hơn mức trung bình của thị trường (biến thiên vàđộ lệch chuẩn thấp hơn thị
trường)
Mô hình Fama-French 3
nhân tố:
Năm 1992, Eugene Fama
một giáo sư tài chính người Mỹ, cùng với Kenneth French khám phá ra rằng
beta của CAPM không giải thích được suất sinh lợi kỳ vọng của chứng khoán Mỹ
thời kỳ 1963-1990. Fama-French bắt đầu quan sát hai lớp cổ phiếu có khuynh hướng
tốt hơn so với toàn bộ thị trường. Thứ nhất là cổ phiếu có vốn hóa nhỏ (small
caps) hay còn gọi là quy mô nhỏ. Thứ hai là cổ phiếu có tỷ số giá sổ sách trên
giá thị trường BE/ME (Book to Market Equity) cao. Họ đưa thêm hai nhân tố này
vào CAPM để phản ánh sự nhạy cảm của danh mục đối với hai loại cổ phiếu này.
Sau khi được giới thiệu vào năm 1993, mô hình ba nhân tố của hai tác giả
Fama-French để lượng hóa mối quan hệ giữa rủi ro và suất sinh lợi đã được kiểm
định là có hiệu quả tại các thị trường chứng khoán phát triển cũng như mới nổi.
Mô hình ba nhân tố
Fama-French (1993) cho rằng suất sinh lợi của một danh mục đầu tư hoặc một cổ
phiếu riêng biệt phụ thuộc vào 3 yếu tố đó là: yếu tố thị trường, yếu tố quy mô
công ty và yếu tố giá trị sổ sách trên giá trị thị trường BE/ME
Mô hình được mô tả như
sau:
E(Ri ) – Rf = c + βi [(E(RM) – Rf] + si(SMB) + hi(HML)
Trong đó:
– E(Ri ) : Mức lợi nhuận kỳ vọng cho danh mục
i.
– Rf : Mức lợi nhuận không rủi ro.
– E(Rf ) : Mức lợi nhuận kỳ vọng của toàn bộ thị
trường.
– SMB : Bình
quân chênh lệch trong quá khứ giữa lợi nhuận danh mục
cổ phiếu công ty nhỏ
so với lợi nhuận danh mục cổ phiếu công ty lớn.
– HML : Bình
quân chênh lệch trong quá khứ giữa lợi nhuận danh mục
cổ phiếu công ty có tỷ
số giá trị sổ sách trên giá thị trường cao so với
công ty có giá trị này
thấp.
– βi : Hệ số hồi qui cho nhân tố thị trường.
– si : Hệ số hồi qui cho nhân tố SMB.
– hi : Hệ số hồi qui cho nhân tố HML.
Mô hình Fama-French 3
nhân tố vẫn cho rằng tỷ suất sinh lợi cao là phần thưởng cho sự chấp nhận rủi
ro cao. Hệ số si và hi lần lượt đo lường mức độ ảnh hưởng của hai
nhân tố SMB và HML đến tỷ suất sinh lợi của danh mục i. Danh mục i bao gồm
những cổ phiếu giá trị sẽ có hệ số hi cao và
ngược lại đối với danh mục bao gồm những cổ phiếu tăng trưởng sẽ có hi thấp. Tương tự, danh mục i bao gồm những cổ
phiếu có vốn hóa thị trường cao thì sẽ có hệ số si thấp và
ngược lại đối với những danh mục bao gồm những cổ phiếu có vốn hóa thị trường
thấp thì hệ số si cao
0 nhận xét:
Đăng nhận xét