Trị số P có lẽ là một chỉ số phổ biến nhất trong các công trình nghiên cứu lâm sàng, và cũng chính vì sự phổ biến mà nó cũng dễ bị hiểu lầm và lạm dụng. Một nghiên cứu ở một nhóm bác sĩ chuyên khoa và có kinh nghiệm trong nghiên cứu y học cho thấy có đến 85% không hiểu ý nghĩa của trị số P [1]. Đại đa số những người được hỏi hiểu rằng một kết luận (về sự khác biệt) với trị số P = 0.05 có nghĩa là khả năng mà kết luận đó sai là 5%, hay khả năng mà kết luận đó đúng là 95% (lấy 1 trừ cho 0.05). Nhiều người khác thì hiểu rằng một sự khác biệt với trị số P càng nhỏ thì mức độ ảnh hưởng càng có ý nghĩa và độ tin cậy của kết luận càng cao. Nhưng rất tiếc rằng cả hai cách hiểu này đều sai. Điều đáng ngạc nhiên là không những giới làm nghiên cứu khoa học hiểu sai, mà ngay cả các nhà nghiên cứu có kiến thức thống kê khá như dịch tễ học cũng hiểu sai. Thật ra, một số nhà thống kê chuyên nghiệp cũng hiểu sai ý nghĩa của trị số P bởi vì một số sách giáo khoa giải thích hoặc là sai, hoặc không rõ ràng!
Vậy thì ý nghĩa thật của trị số P là gì? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải điểm qua triết lí khoa học, bởi vì mô hình nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial – RCT) dựa vào triết lí phản nghiệm (falsificationism).
Theo Theo Karl Popper [3], cha đẻ của triết lí phản nghiệm, một giả thuyết được xem là mang tính “khoa học” nếu giả thuyết đó có khả năng “phản nghiệm”. Đặc điểm duy nhất để có thể phân biệt giữa một lí thuyết khoa học thực thụ với ngụy khoa học (pseudoscience) là thuyết khoa học luôn có đặc tính có thể “bị bác bỏ” hay “khả năng phản nghiệm” (falsified) bằng những thực nghiệm đơn giản. Ông gọi đó là “khả năng phản nghiệm” (falsifiability) [4]. Phép phản nghiệm là phương cách tiến hành những thực nghiệm không phải để xác minh mà để phê phán các lí thuyết khoa học, và có thể coi đây như là một nền tảng cho khoa học thực thụ. Chẳng hạn như giả thuyết [đơn giản] “vi khuẩn V. choleraegây bệnh dịch tả” có thể bác bỏ nếu có một bệnh nhân dịch tả không nhiễm vi khuẩn V. cholerae.
Đứng trên phương diện khoa học, có hai mô hình thực tế để tiếp cận lí thuyết phản nghiệm: đó là mô hình kiểm định thống kê và mô hình kiểm định giả thuyết. Rất nhiều sách giáo khoa thống kê và khoa học đã được viết ra, nhưng rất tiếc, nhiều tác giả không giải thích hay không phân biệt được hai mô hình này. Có tác giả thậm chí còn nhầm lẫn khi diễn dịch, và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiểu lầm ý nghĩa của trị số P. Trong phần này, tôi sẽ giải thích ngắn gọn và cung cấp tài liệu tham khảo của hai mô hình để bạn đọc có thể hiểu qua và nghiên cứu thêm.
Mô hình kiểm định ý nghĩa thống kê
Triết lí phản nghiệm rất phổ biến và trở thành một mô hình để giải thích sự tiến bộ của khoa học. Chịu ảnh hưởng bởi triết lí này, Ronald A. Fisher (1890 – 1962), một nhà di truyền học người Anh và cũng là “cha đẻ” của nền thống kê học hiện đại, đề xuất một phương pháp định lượng để phản nghiệm một giả thuyết khoa học. Ông gọi phương pháp này là “Test of Significance” [5-6] (tôi tạm dịch là: phương pháp kiểm định ý nghĩa thống kê). Fisher quan niệm rằng thống kê là một bộ phận quan trọng của phương pháp suy luận theo phép qui nạp (inductive inference), tức là phương pháp suy luận dựa vào quan sát từ các mẫu (sample) và khái quát cho một quần thể (population). Phương pháp kiểm định ý nghĩa thống kê được tiến hành theo 3 bước như sau:
+ Bước 1, phát biểu một giả thuyết vô hiệu (null hypothesis). Giả thuyết vô hiệu là giả thuyết ngược lại với giả thuyết mà nhà nghiên cứu muốn kiểm định. Chẳng hạn như nếu giả thuyết điều trị bằng thuốc Ramipril làm giảm nguy cơ tử vong, thì giả thuyết vô hiệu sẽ phát biểu là “tỉ lệ tử vong ở bệnh nhân được điều trị bằng Ramipril bằng với nhóm giả dược. Gọi giả thuyết vô hiệu là H0.
+ Bước 2, thu thập dữ liệu liên quan đến giả thuyết. Trong ví dụ trên, số liệu sẽ là số trường hợp tử vong. Gọi dữ liệu là D.
+ Bước 3, ước tính xác suất quan sát dữ liệu D nếu giả thuyết H0 đúng. Nói cách khác và viết theo ngôn ngữ toán, bước này ước tính P(D | H0). Đây chính là trị số P (P-value).Fisher đề nghị báo cáo trị số P một cách chính xác. Tức là không có những cách viết như P < 0.05 hay P> 0.01 mà phải là P = 0.043 hay P = 0.002. Fisher còn đề nghị rằng nếu trị số P thấp hơn 0.05 thì giả thuyết H0 (vô hiệu) không phù hợp với số liệu quan sát được. Đối với Fisher, không có chuyện “bác bỏ giả thuyết” hay “chứng minh giả thuyết” mà chỉ có số liệu có phù hợp, có nhất quán với giả thuyết hay không mà thôi. Quan điểm này chịu ảnh hưởng “đậm” của triết lí phản nghiệm của Popper, vì theo triết lí này, chúng ta không thể chứng minh bất cứ một giả thuyết nào, mà chỉ có thể bác bỏ (disprove) một giả thuyết bằng dữ liệu quan sát được.
Mô hình Kiểm định giả thuyết
Jerzy Neyman (1894 – 1981) là một nhà toán học xuất sắc gốc Ba Lan và Egon Pearson (1895 – 1980) là một nhà thống kê học (con của giáo sư Karl Pearson, cha đẻ của lí thuyết Chi-square và hệ số tương quan) cùng lúc với Fisher, phát triển một phương pháp rất khác với Fisher, mà hai ông gọi là Test of Hypothesis (Kiểm định giả thuyết) [7]. Neyman và Pearson bác bỏ khái niệm suy luận theo qui nạp; hai ông nghĩ rằng thống kê học là một phương pháp hay cơ chế để hướng dẫn chúng ta đi đến một quyết định đúng về lâu về dài. Nói cách khác, Neyman và Pearson cho rằng phương pháp của Fisher vô nghĩa!
Một cách đơn giản, mô hình kiểm định giả thuyết của Neyman và Pearson có thể thực hiện qua các bước như sau:
+ Bước 1, phát biểu giả thuyết chính (H1) và giả thuyết vô hiệu (H0).
+ Bước 2, quyết định mức độ α và β có thể chấp nhận được và ước tính cỡ mẫu cần thuyết. α là xác suất bác bỏ giả thuyết H1 nhưng đó là giả thuyết đúng. β là xác suất bác bỏ H0 trong khi H0 đúng.
+ Bước 3, thu thập dữ liệu liên quan đến giả thuyết.
+ Bước 4, nếu dữ liệu nằm trong khoảng bác bỏ giả thuyết H0. thì chấp nhận giả thuyết H1; nếu không thì chấp nhận giả thuyết H0. Chú ý rằng “chấp nhận” một giả thuyết không có nghĩa là chúng ta tin vào giả thuyết đó, mà chỉ có nghĩa là chúng ta hành động với điều kiện đó là giả thuyết đúng.
Nguyên lí của mô hình Neyman và Pearson là chúng ta dựa vào dữ liệu để chọn một giả thuyết sao cho về lâu về dài chúng ta không quá sai. Chính vì thế mà ngày nay chúng ta thường chọn α = 5% và β = 10% đến 20%.
Fisher bác bỏ hoàn toàn mô hình của Neyman và Pearson [8]. Ông cho rằng đó là một mô hình … vô duyên. Fisher nhạo báng rằng các nhà toán học (ám chỉ Neyman và Pearson) “chẳng hiểu gì về thực nghiệm và đề ra một mô hình quá phi thực tế”. Trong những năm sau đó (thập niên 1930s) cộng đồng thống kê học chứng kiến một cuộc tranh luận dai dẵng và đôi khi nóng bỏng giữa Fisher và Neyman-Pearson trên các tập san thống kê học ở Anh. Fisher tuy là một người thông minh tuyệt vời, một nhà tư tưởng với những suy nghĩ trừu tượng, nhưng lại là một người rất khó tính và có khi hẹp hòi. Sự hẹp hòi của Fisher thể hiện ở chỗ ông sử dụng chức quyền khoa bảng của mình để gây khó khăn cho Neyman đến nỗi ông này chịu không nỗi và phải di cư sang Mĩ và sau này trở thành giáo sư tại trường Đại học Berkeley. Sau này, Neyman được lịch sử ghi nhận là một nhà thống kê học xuất sắc có công cực kì to lớn cho khoa học hiện đại, sánh vai cùng các “đại thụ” trong khoa học hiện đại. Nước Mĩ quả thật là môi trường cho ông thi thố tài năng!
Một mô hình hỗn hợp
Trớ trêu thay, mấy mươi năm sau, hai mô hình của Fisher và Neyman-Pearson được “hun đúc” thành một mô hình tổng hợp mà chúng ta ứng dụng ngày nay trong nghiên cứu y học. Mô hình này sử dụng kết quả kiểm định thống kê của Fisher để đi đến quyết định chấp nhận hay bác bỏ giả thuyết vô hiệu H0 hay giả thuyết chính H1 theo mô hình của Neyman và Pearson. Tiêu biểu cho mô hình này là nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial hay RCT). Theo đó, một nghiên cứu lâm sàng được tiến hành theo các bước như sau:
+ Bước 1, định nghĩa một giả thuyết vô hiệu và một giả thuyết chính. Thí dụ trong một nghiên cứu lâm sàng, gồm hai nhóm bệnh nhân: một nhóm được điều trị bằng thuốc A, và một nhóm được điều trị bằng placebo, nhà nghiên cứu có thể phát biểu giả thuyết vô hiệu rằng độ hiệu nghiệm thuốc A tương đương với placebo.
+ Bước 2, xác định xác suất α (còn gọi là sai số loại I) và β (còn gọi là sai số loại II), và ước tính cỡ mẫu dựa vào hai xác suất này.
+ Bước 3, thu thập dữ liệu liên quan đến giả thuyết. Gọi dữ liệu là D.
+ Bước 4, sử dụng phương pháp kiểm định ý nghĩa thống kê của Fisher ước tính xác suất P(D | H0). Gọi trị số này là P.
+ Bước 5, nếu P < 0.05, bác bỏ giả thuyết H0. Chú ý, bác bỏ H0 không có nghĩa là chúng ta chấp nhận giả thuyết H1.
Ví dụ 2. Có thể minh họa cho các bước trên bằng một ví dụ về nghiên cứu hiệu quả của thuốc Ramipril trong việc phòng chống tử vong và đột quị [1]. Với giả thuyết rằng thuốc có hiệu nghiệm giảm nguy cơ tử vong và đột quị, các nhà nghiên cứu so sánh tỉ lệ tử vong và độ quị giữa hai nhóm bệnh nhân: nhóm 1 được điều trị bằng Ramipril và nhóm 2 là nhóm giả được (placebo). Bắt đầu bằng cách xác định α = 0.05 và β = 0.80. các nhà nghiên cứu ước tính số lượng bệnh nhân cần thiết. Sau ba năm thu thập số liệu, kết quả có thể tóm lược trong bảng số liệu sau đây:
HOPE/HOPE-TOO Study Investigators. Long-term effects of Ramipril on cardiovascular events and diabetes. Results of the HOPE Study Extension. Circulation 2005; 112:1339*1346.
Bởi vì trị số P thấp hơn mức α (0.05) mà các nhà nghiên cứu đề ra từ lúc đầu (trước khi thu thập số liệu); cho nên, các nhà nghiên cứu kết luận rằng sự khác biệt về tỉ lệ tử vong và đột quị giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê. Tất nhiên, trị số P trên không có nghĩa là nghiên cứu đã chứng minh rằng thuốc Ramipril có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong và đột quị. Nó có nghĩa là nếu thật sự thuốc Ramipril không có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong và đột quị thì xác suất mà các nhà nghiên cứu quan sát các số liệu trên là 0.0002.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét